Lehman Brothers là gì và những hệ luỵ kéo theo sau khi phá sản của công ty đã tác động như thế nào đến nền kinh tế thế giới? Lehman Brothers được mệnh danh là một trong số những công ty hàng đầu trên toàn thế giới thời điểm năm 2000. Tuy nhiên những chiến lược không đúng đã dẫn đến những hệ luỵ không thể ngờ đến. Tìm hiểu bài viết bên dưới đây cùng Sanforex để hiểu sâu hơn về vấn đề này nhé.
Lehman Brothers là gì? Tìm hiểu chung Lehman Brothers
Lehman Brothers được xếp hạng hàng đầu nước Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng đầu tư và giao dịch tài chính. Tổ chức này được ra đời vào năm 1850 dưới sự sáng lập của ba anh em gia đình Lehman. Được biết Lehman Brothers được đánh giá là một công ty tiên phong trong ngành tài chính bật nhất tại Mỹ vào thời điểm những năm 2000. Quy mô hoạt động khá rộng với nhiều ngành nghề khác nhau có thể kể đến là: trading và dịch vụ tài chính, đầu tư tài chính cũng như quản lý tài sản.
Ngân hàng Lehman Brothers qua từng giai đoạn quan trọng
Cột mốc từng năm | Sự kiện được diễn ra |
Năm 1850 | Công ty được ba anh em nhà Lehman sáng lập nên.
Hoạt động kinh doanh chú trọng trọng vào nông sản và vải. |
Năm 1887 | Lehman Brothers bước đầu thực hiện việc thu mua các công ty trong thị trường chứng khoán nhằm mục đích phát triển và tham gia vào lĩnh vực này. |
Năm 1929 | Lehman được đánh giá là một trong những công ty nổi bật nhất trong lĩnh vực chứng khoán tại Mỹ và có thể vượt qua thời kỳ khủng hoảng.
Những năm tại thập niên 1920, công ty được biết đến với sự tăng trưởng vượt bậc và thời điểm đó thị trường chứng khoán cũng có những khởi sắc. |
Năm 1980 | Shearson Loeb Rhoades – một công ty có tiếng và được đánh giá hàng đầu tại Mỹ trong những năm đó – đã chính thức trở thành một phần của Lehman sau khi thương vụ mua lại thành công. |
Năm 1993 | Lehman Brothers đã tiếp tục mua lại E.F.Hutton Mortgage Corporation – đây là một công ty tài chính trong hàng top tại Mỹ.
Trong lúc này Lehman đẩy mạnh việc chú trọng vào lĩnh vực bất động sản. |
Năm 2000 | Lehman Brothers ngày càng nổi tiếng với thành công vang dội trong lĩnh vực kinh doanh trái phiếu.
Ngoài ra, Lehman cũng đem đến dịch vụ quản lý rủi ro đối với tài chính hàng đầu tại các công ty và tổ chức tài chính. |
Năm 2007 | Lehman Brother ngày càng phát triển hơn nữa trong lĩnh vực tài chính bất động sản khi cho phép các khoản vay không cần tài sản đảm bảo.
Dựa vào chiến thuật cực kỳ hiệu quả này, Lehman đã ngày càng phát triển không ngừng. Mặc dù vậy, đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho công ty bị thất bại sau này. |
Tháng 9/2008 | Công ty gặp nhiều khó khăn liên quan đến việc tài trợ cũng như những giá trị về tài sản cũng trở nên hao hụt do tác động từ cuộc khủng hoảng tín dụng trên toàn thế giới. |
Ngày 15/9/2008 | Thông báo được đưa ra về việc Lehman Brothers phá sản.
Sự kiện này đã gây ra sự khủng hoảng tài chính chấn động hàng đầu tính từ thời điểm Thế Chiến Thứ Hai kết thúc. Đây cũng là cột mốc dừng lại cho đế chế tài chính tại Mỹ. |
Sự phát triển và loại hình kinh doanh của Lehman Brothers
Lĩnh vực chính của Lehman Brothers đang kinh doanh
Trước năm 2008 Lehman Brothers trên đà phát triển cùng đa dạng các lĩnh vực, mang đến nhiều sản phẩm và dịch vụ cho những công dân tại Mỹ có thể kể đến là:
- Quản lý tài sản: Công ty thực hiện việc quản lý các loại hình đầu tư, theo dõi và đánh giá tài chính cũng như đưa ra những lời khuyên cho những hạng mục trading như stock, bonds, các quỹ đầu tư và các sản phẩm tài chính không đơn giản.
- Đầu tư tài chính: Lehman Brothers trading các loại bonds, quỹ đầu tư, stock cũng như những sản phẩm đầu tư không đơn giản là những phương pháp tài chính bắt nguồn từ các khoản vay nợ cầm cố tài sản.
- Tài trợ tài sản: Lehman cung cấp dịch vụ hỗ trợ tài sản đối với các khách hàng đơn lẻ từ các tổ chức liên quan đến các khoản vay thương mại, khoản vay có cầm cố tài sản hoặc những khoản vay có liên quan.
- Thẩm định tài sản: Công ty thực hiện việc đưa ra các đánh giá về bất động sản, công ty cũng như những tài sản được đánh giá không dễ dàng trong việc cho phép tham gia các khoản nợ thế chấp.
- Quản lý rủi ro: Là các hoạt động kinh doanh về bảo hiểm cũng như những dịch vụ quản lý rủi ro về tài chính cùng mục tiêu giúp đỡ khách hàng hoàn thành việc đầu tư đảm bảo, chắc chắn và đem đến kết quả tốt.
Tóm lại, khách hàng mục tiêu mà Lehman hướng đến hầu hết là các quỹ đầu tư, tổ chức tài chính, các trader cá nhân cũng như những khách hàng trong mảng bất động sản. Cùng sự hùng mạnh vô cùng trong lĩnh vực tài chính, quá trình sự đổ năm 2008 của Lehman Brothers đã gây ra hệ luỵ không hề nhỏ đối với những khách hàng ở phạm vi cả trong và ngoài nước, ảnh hưởng to lớn và kéo theo sự kiện khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới.
Mức độ phát triển của ngân hàng Lehman Brothers
Được biết, ngân hàng Lehman Brothers được xếp hạng hàng đầu toàn cầu cùng quy mô hoạt động rộng rãi những năm trước 2008. Thông qua những con số dưới đây có thể biểu đạt được mức độ phát triển của ngân hàng:
- Toàn bộ tài sản mà công ty đang sở hữu ở thời điểm thông tin Thông tin phá sản phá sản được đưa ra nằm ở mức 639 tỷ đô la Mỹ.
- Tính trên phạm vi toàn thế giới, số người làm việc cho Công ty Lehman Brothers vượt hơn 26.200 nhân viên.
- Ngân hàng được phân bổ tại hơn 40 đất nước khác nhau trên toàn thế giới
- Tính riêng thời điểm tài chính 2007, Lehman Brothers số tiền thu về từ các hoạt động của ngân hàng cao hơn con số 600 tỷ đô la Mỹ cùng với mức lợi nhuận ròng là 4 tỷ đô.
- Năm 2008, trong bảng xếp hạng của Fortune 500 – list 500 công ty có quy mô hàng đầu tại Mỹ, ngân hàng được đánh giá thứ 4 trong danh sách.
Lý do dẫn đến việc Lehman Brothers phá sản, tình hình lúc bấy giờ như thế nào?
Vậy những nguyên nhân chính dẫn đến sự phá sản của Lehman Brothers là gì? Hãy cùng theo dõi tiếp những thông tin dưới đây để giải đáp cho câu hỏi này nhé.
Tình hình trước khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn thế giới diễn ra
Năm 2003 – 2004, thời điểm nước Mỹ bắt đầu áp dụng chính sách nới lỏng tiền tệ đã đem lại tiềm năng và những cánh cửa cho người đi vay tiền từ ngân hàng, hành động này được thực hiện không hề khó khăn như trước đây. Một phần các công dân Mỹ đã nhanh chóng thực hiện việc mua nhà và đầu cơ bất động sản, vấn đề này đã gây ra ảnh hưởng về giá của bất động sản trong thời điểm đó, cụ thể là nhảy vọt và tăng lên một cách chóng mặt. Nhìn chung, lúc này mua bán bất động sản vô cùng phát triển và diễn ra một cách sôi nổi.
Bị ảnh hưởng không nhỏ từ phong trào này, ngân hàng Lehman Brothers đã bắt tay vào việc mua lại 5 công ty thuộc cho vay thế chấp cùng 2 công ty mang tên BNC Mortgage và Aurora Loan Services. Hành động này được thực hiện nhằm kinh doanh giấy nợ bao gồm thế chấp (CDO) và các khoản nợ liên quan đến bất động sản (MBS). Tiếp đến, công ty đã gom tất cả lại để tạo ra các khoản trái phiếu với mục đích sell cho các trader.
Lúc này được đánh giá là thời điểm vàng của thị trường bất động sản vì chúng đang nằm ở mức vượt đỉnh với giá trị nhà đất ngày càng cao hơn nữa, điều này đã làm cho những sản phẩm chính được nhiều người quan tâm đến. Tính đến hiện nay, mô hình kinh doanh của Lehman Brothers vẫn được đánh giá cao và thành công với mức lợi nhuận có được cực kỳ lớn trong thời điểm ấy. Dựa vào bảng báo cáo tài chính trong năm 2007, tổng doanh thu là 19.3 tỷ đô la Mỹ, trong đó riêng Lehman Brothers đem về 4.2 tỷ đô la.
Hình thức kinh doanh giấy nợ kèm tài sản thế chấp (CDO) và bất động sản (MBS)
MBS (được viết tắt của nợ bất động sản) là một một giấy xác nhận được đưa ra dựa trên việc dùng nhiều các khoản nợ cầm cố tài sản như nhà để trao đổi thành trái phiếu được sử dụng thông qua các khoản nợ trên. Các loại giấy xác nhận này sẽ được phân chia thành nhiều mục thích hợp với từng mức độ rủi ro không giống nhau. Mục có phần trăm rủi ro cao sẽ chịu tỷ lệ lãi suất tương ứng và nhiều hơn so với những mục chứa mức rủi ro thấp.
Những trader mua nợ bất động sản (MBS) nhằm mục đích thu được số lợi nhuận hấp dẫn hơn so với các loại hình đầu tư tài chính khác trên thị trường. Đối với tình huống những khoản nợ cầm cố tài sản từ MBS không được trả lãi đúng hạn theo quy định thì giá trị của các tài sản thế chấp sẽ ngày càng thấp và cùng với đó khả năng mất tiền của những trader sẽ cao hơn.
Giống với nợ thế chấp, hình thức CDO cũng có cách vận hành tương tự như vậy tuy nhiên điểm khác nhau ở đây là CDO có thể sử dụng đa dạng các loại tài sản hơn. Trader được phép dùng khác khoản nợ về bất động sản, nợ thương mại, nợ tín dụng cũng như các khoản vay khác.
Cả hai hình thức trên đều có độ rủi ro đi kèm khá lớn, mặc dù vậy gần như tất cả các trader đều không chú trọng đến vấn đề này do những giá trị nhận được từ chúng thu hút hơn rất nhiều. MBS và CDO là hai mô hình tồn tại nhiều khoản nợ không được xem xét một cách chính xác và nghiêm túc. Cũng có thể nói, chủ những khoản vay có thể sẽ không gánh nổi số nợ trên tuy nhiên họ vẫn sẽ vay thành công, đây cũng chính là phương pháp của các trader hiện nay đang áp dụng.
Sự suy giảm của thị trường nhà đất
Những rủi ro ập đến khi chúng không được chú ý đến cũng như việc Lehman Brothers đã đã hứng chịu kết quả không thể ngờ đến. Ngân hàng đã mua lại số lượng lớn các khoản vay cầm cố bất động sản nhằm xây dựng MBS và hành động nắm giữ không ít khoản vay này đã làm cho tài sản chung của Lehman bị lên thuộc rất nhiều vào sự biến động của thị trường bất động sản thời điểm bấy giờ.
Không chỉ vậy, rủi ro từ CDO xảy ra không được xem xét chính xác của ngân hàng Lehman Brothers đã đánh giá cao mức nợ CDO quá cao, trên thực tế chúng không thể trả được số tiền đã vay. Giai đoạn các khoản nợ xảy ra tình trạng không thể chi trả, giá trị CDO đã hạ giá không phanh và dẫn đến doanh thu của Lehman Brothers hao hụt lên đến 20 tỷ đô la Mỹ trong thời gian không lâu.
Thị trường bất động sản và những hoạt động khác cũng bị kéo theo do FED đưa ra quyết định năng cao lãi suất. Thời điểm ấy, các nhà đầu tư tham gia đầu cơ nhà phải chi trả mức lãi suất ngất ngưởng, cùng với đó thị trường không có sự gia tăng đối với các nhà đầu cơ mới vì số tiền lãi vay không còn thu hút. Vấn đề này đã làm cho giá trị của bất động sản tại Mỹ hạ xuống không phanh và dẫn đến khả năng tài chính của Lehman cũng bị ảnh hưởng rất nhiều.
Lehman Brothers bị phá sản vào năm 2008
Tại sao Lehman Brothers sụp đổ? Thời điểm năm 2008, sau sự phá sản của Lehman, tình hình nền kinh tế tại Mỹ dần chuyển biến xấu và lâm vào thời kỳ đầu của cuộc khủng hoảng.
Thời gian | Sự kiện diễn ra |
Tháng 3/2008 | Các báo cáo về mức lỗ ròng được công bố tính từ thời điểm công ty được ra mắt. |
Tháng 6/2008 | Báo cáo tài chính của tháng 2 được thông báo cùng những vấn đề về số lượng nợ đang có trong thời điểm đó con số lên đến 613 tỷ đô la Mỹ. |
Tháng 8/2008 | Chính thức thông báo về việc cắt giảm 6% trên toàn số lượng nhân viên của công ty. |
Ngày 9/9/2008 | Những thông tin liên quan đến báo cáo tài chính của quý 3 sẽ được thông báo vào ngày 15/9.
Đây cũng chính là thời điểm mà Lehman đưa ra nhắc nhở về khả năng suy giảm thị trường bất động sản. |
Ngày 10/09/2008 | Các trader cùng như những đối tác đang làm việc dần thu hồi số tiền ra khỏi Lehman Brothers. Hành động này kéo theo việc giá cổ phiếu cũng bị sụt giảm nghiêm trọng ở mức 45% chỉ trong một ngày. |
Ngày 12/09/2008 | Lehman Brothers đã gửi yêu cầu cần được giúp đỡ về tài chính trong cuộc họp gấp của Bộ Tài chính Mỹ cùng Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỷ (FED) nhằm đưa ra hướng khắc phục cho tình trạng khủng hoảng tài chính. |
Ngày 13/09/2008 | Barclay đã không thành công trong việc mua lại Lehman Brothers vì không thể đi đến được thỏa thuận cuối cùng với các trader. |
Ngày 14/09/2008 | Thông báo về việc ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ được công bố và cùng lúc đó cũng gửi đến yêu cầu nhằm bảo vêh chương 11 để có kéo dài thêm thời gian trong việc thay đổi cơ cấu của công ty. |
Ngày 15/09/2008 | Lehman Brothers đã hoàn toàn bị xoá khỏi danh sách chỉ số chứng khoán Dow Jones. |
Vì sao chính phủ Hoa Kỳ lại không cứu ngân hàng Lehman Brothers?
Trong tình cảnh khủng hoảng tài chính năm 2008, nhiều cửa hàng có quy mô lớn tại Hoa Kỳ được chính phủ hỗ trợ để thoát khỏi tình trạng khó khăn như: Citigroup, Bank of America, Goldman Sachs, JP Morgan Chase và Wells Fargo. bằng các phương pháp như mang đến các khoản vay cũng như giúp đỡ về nguồn vốn với mục đích thoát khỏi tình trạng phá sản và giảm được nhiều nhất những khó khăn về tài chính trên tất cả hệ thống của ngân hàng.
Mặc dù vậy, không giống với các ngân hàng lớn tại Mỹ, Lehman Brothers không nhận được sự hỗ trợ tài chính từ chính phủ. Để trả lời cho vấn đề trên là do Lehman đã không có được nhận được sự đầu tư từ đối tác của chiến thuật này cũng như các trader mang đến nguồn vốn đủ để giúp đỡ hoặc thu lại công ty. Sự phá sản của công ty được xem xét và cho rằng là vượt hơn 10 lần so với Enron – công ty đã phá sản năm 2001 và làm chao đảo thị trường tài chính.
Chính phủ Mỹ đã đưa ra nhận định rằng trường hợp hỗ trợ ngân hàng Lehman lúc bấy giờ sẽ gây ảnh hưởng đến sự ổn định dẫn đến niềm tin của toàn thị trường cũng bị thay đổi. Bên cạnh đó còn tồn tại nhiều vấn đề nếu hành đồng giúp đỡ Lehman Brothers không nhận được sự đồng thuận của những người dân trong nước do những suy nghĩ liên quan đến việc tiền thuế được sử dụng vào đây.
Những vấn đề lý giải cho sự phá sản của Lehman Brothers
Vậy tại sao ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ? Những lý do dẫn đến việc công ty bị phá sản đến từ nhiều sự tác động khác nhau hơn hết là 5 lý do được nêu ra ngay dưới đây:
- Quản lý rủi ro tài sản không thành công: Lehman Brothers đã mua lại và nắm giữ quá tài sản sợ CDO và MBS để xây dựng nên danh sách trading tuy nhiên mức độ rủi ro đi kèm không hề nhỏ. Ngân hàng đã phải lệ thuộc hầu hết vào tài sản bất động sản tuy nhiên nó không được xem xét và cân nhắc chính xác về mức độ rủi ro.
- Thị trường bất động sản Mỹ dần suy thoái: điều này ảnh hưởng không ít đến giảm sút của thị trường chung cũng như làm cho ngân hàng không dễ dàng gì trong việc thỏa mãn được những khoản nợ bất động sản.
- Việc tìm kiếm nguồn vốn và chi trả cho các khoản dần bế tắc: Nó gây ra tác động không nhỏ đến chính phủ và các ngân hàng khác cũng dè dặt cân nhắc việc hỗ trợ Lehman Brothers do các khoản nợ mà công ty đang có đã là một gánh nặng với thị trường chung và dựa trên quy mô của những ngân hàng đó.
- Đòn bẩy tài chính quá lớn: Lehman Brothers đã áp dụng phương pháp đòn bẩy tài chính theo hướng quá cao đối với việc đầu tư vào những sản phẩm tài chính không đơn giản, phải kể đến là những khoản vay liên ngân hàng chỉ trong thời điểm ngắn.
- Lý do cuối cùng được đánh giá là Lehman Brothers đã không có đủ lượng tiền mặt dự trù sẵn do đó là tạo ra tình huống không thể thoả được những mong muốn trả nợ từ các trader. Thông qua đây, sự lo lắng của các nhà đầu tư và những người tham gia đã nảy sinh. Đây chính là lý do to lớn góp phần làm cho Lehman Brothers bị bank run và phá sản.
Vừa rồi là những lý do chính được xem là điều tất yếu gây ra sự sụp đổ của Lehman Brothers, công ty không còn đảm bảo được việc cho trả nợ cũng như nhận được nguồn vốn mới nhằm giải thoát khỏi tình trạng trên. Thời điểm ngày 15 tháng 8 năm 2008 đã được công bố về sự sụp đổ của Lehman Brothers và đó được coi là sự kiện gây ảnh hưởng lớn trong lịch sử kinh tế Mỹ.
Được biết có rất nhiều yếu tố chung tuy nhiên sự phá sản của Lehman Brothers đã chịu hầu hết các tác động đến từ thị trường bất động sản. Những chiến thuật vận hành sai lầm của người dẫn đầu công ty – anh em nhà Lehman đã khiến cho công ty chạm đáy. Kết thúc cho điều này là sự từ chối hỗ trợ từ chính phủ và người dân Hoa Kỳ.
Sự sụp đổ của Lehman Brothers dẫn đến những hệ luỵ như thế nào?
Kể từ thời điểm Lehman Brothers công bố việc sụp đổ của công ty đã dẫn đến những ảnh hưởng vô cùng lớn đến nền kinh tế trên toàn cầu. Đối với những ngành công nghiệp khá trên thị trường cũng bị tác động đi cùng với sự sụt giảm dẫn đến sự hạ xuống không phanh tại thị trường tài chính kinh tế toàn cầu. Những hệ lụy đi kèm sau sự phá sản của Lehman Brothers như sau:
- Tỷ lệ thất nghiệp từ 5% đã tăng thêm gấp đôi và duy trì ở mức 10%, có đến 26,200 người lao động đang làm việc tại Lehman rơi vào tình cảnh không có việc làm. Những công ty tài chính cũng bắt đầu việc loại bỏ bớt các nhân sự trong công ty, không chỉ vậy họ còn áp dụng nhiều phương pháp nhằm hạn chế tối đa các chi phí hoạt động để duy trì hoạt động kinh doanh “cầm hơi” qua thời kỳ khủng hoảng.
- Sự sụt giảm thị trường tài chính cũng như các chỉ số chung về nó có thể kể đến là Dow Jones, S&B cũng biểu hiện sự tụt dốc nằm ở mức 50%. Thông qua đây cho thấy những tài sản như bonds, share và bất động sản cũng bị tác động đến. Giá bất động sản của Hoa Kỳ lúc này cũng có sự sụt giảm đáng kể ở mức 31%.
- GDP trong những năm từ 2007 – 2009 đã sụt giảm với tỷ lệ là 4,3% trong giai đoạn nền kinh tế đang bị sụt giảm. Điều này được minh chứng bằng việc chính phủ đã đưa ra các chính sách giúp đỡ và cứu cho các công ty trên nhiều ngành khác nhau khi sự kiện Lehman bị phá sản kéo theo những ảnh hưởng của các bên khác.
- Sụt giảm kinh tế trên toàn cầu: ngoài sự ảnh hưởng mà các công ty trong nước đang phải gánh chịu thì các tổ chức khác trên toàn thế giới cũng phải hứng chịu những gì mà Lehman Brothers đã để lại. Vì đây là một trong những công ty tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau với phạm vi toàn cầu do đó khi công ty bị phá sản thì kéo theo những hệ luỵ cho nền kinh tế trên toàn thế giới.
Các chính sách mới được áp dụng sau khi Lehman Brothers phá sản
Sau sự sụp đổ nghiêm trọng của Lehman Brothers kéo theo sự ảnh hưởng của của giới tài chính Hoa Kỳ, để hạn chế tối đa những tình huống như vậy sẽ tiếp diễn cũng như duy trì sự cân bằng của tất cả hệ thống, chính phủ Hoa Kỳ đã tạo ra các quy định cùng những đạo luật mới. Sau đây là những quy định và luật nổi bật có thể kể đến là:
- Dod Frank Wall Street Reform and Consumer Protection Act: là luật được duyệt và công bố năm 2010. Với vai trò chính là giữ vững sự minh bạch và cân bằng giúp cả bộ máy tài chính Mỹ hoạt động. Thông qua đây, những ngân hàng cũng như tổ chức tài chính sẽ đảm bảo trách nhiệm mang đến những báo cáo rõ ràng, đầy đủ, xây dựng các cơ tài chính mới nhất.
- Stress test: Ngân hàng bắt buộc phải thực hiện các bài kiểm tra về mức độ hứng chịu áp lực nếu có khủng hoảng tài chính diễn ra. Các đợt kiểm tra này nhằm chắc chắn việc những ngân hàng có đủ tiềm lực để vượt qua các ảnh hưởng xấu đến khi thị trường tài chính có những chuyển biến xấu.
- Volcker Rule: được công bố và có hiệu lực năm 2014 nhằm ngăn ngừa tối đa các hoạt động kinh doanh của ngân hàng đầu tư bắt nguồn từ việc tạo ra lợi nhuận tài chính chỉ trong giai đoạn ngắn hạn, tỷ lệ rủi ro thấp cũng như chắc chắn về sự sự cân bằng của hệ thống tài chính trong nước.
- Basel III: còn được giải thích là chuẩn mức vốn theo ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) có hiệu lực năm 2013. Yêu cầu về chuẩn mức trên buộc các ngân hàng phải đảm bảo việc giữ được số vốn luôn đủ để cân bằng và giúp cho hệ thống tài chính không bị khủng hoảng hay biến động xấu đi.
Ngoài ra, những ban ngành quản lý tài chính tại Hoa Kỳ cũng đã thực hiện hành động quan sát, theo dõi và kiểm tra cũng như nắm bắt quản lý tỷ lệ rủi ro đến từ các tổ chức tài chính. Không chỉ vậy, tạo ra các nguyên tắc mới với lý do đảm bảo quyền lợi cao nhất cho khách hàng cũng như mang đến những thông tin xác thực, toàn diện cho các trader.
Thông qua bài viết này chắc hẳn bạn đọc đã nắm được nguyên nhân sụp đổ của công ty Lehman Brothers là gì. Những đánh giá và sai lầm khi đưa ra chiến lược đầu tư của công ty khi dồn toàn bộ vào các khoản vay thế chấp bất động sản. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế Mỹ mà còn mang đến tác động không nhỏ trên phạm vi toàn thế giới. Mong rằng những thông tin trên đã đưa đến những kiến thức hữu ích về Lehman Brothers – công ty tài chính bật nhất tại Mỹ.
Xem thêm:
Tìm hiểu ngân hàng Barclays về sức ảnh hưởng đối với toàn cầu
ECB là gì? Tiến hành giao dịch dựa trên chính sách của ngân hàng ECB
Tôi là Trang Thái Hùng – tác giả của những bài viết trên ForexDictionary, với kinh nghiệm hơn 5 năm trong lĩnh vực đầu tư tài chính tôi muốn chia sẻ đến bạn đọc các kiến thức mà tôi đã tích luỹ được, vững kiến thức chọn được nơi đầu tư an toàn lợi nhuận khủng không còn là chuyện quá khó.