Bretton Woods là gì? Đây là một hệ thống tiền tệ huyền thoại trong quá khứ đã giúp tiền tệ thế giới duy trì được sự ổn định và trật tự một cách kỷ luật. Như vậy, khái niệm và các đặc điểm của hệ thống Bretton Woods có gì đặc biệt? Vì sao hệ thống Bretton Woods sụp đổ? Để tìm hiểu về các vấn đề này, Forex Dictionary sẽ đem đến cho bạn các thông tin chính xác và hữu ích nhất ở bài viết sau đây.
Hệ thống tiền tệ Bretton Woods là gì?
Bretton Woods được biết đến là một hệ thống tiền tệ quốc tế và những định chế tài chính liên quan sử dụng đồng USD Mỹ để thay thế cho một thước đo nào đó duy nhất vào việc lưu trữ dự trữ và thanh toán tiền tệ quốc tế. Hệ thống tiền tệ Bretton Woods này đã tồn tại được rất lâu từ năm 1944 cho đến năm 1976 và đồng thời nó có sự ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế toàn cầu.
Hệ thống tiền tệ Bretton Woods ra đời như thế nào?
Trước khi có sự ra đời của hệ thống Bretton Woods, thước đo tài chính duy nhất được sử dụng để trao đổi tiền tệ chính là vàng và mỗi quốc gia sẽ đặt ra một tỷ giá hối đoái đồng tiền của quốc gia mình một cách độc lập sao cho tương ứng so với giá trị của vàng. Lúc này, Chiến tranh thế giới thứ 2 và các cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra hàng loạt đã cho thấy cần phải nâng cấp hệ thống tiền tệ của nền kinh tế thế giới.
Bắt đầu từ đó đã có rất nhiều quốc giá từ bỏ “bản vị vàng”, việc tự do chuyển đổi tiền tệ quốc gia sang thành vàng cũng được dừng lại. Không những thế, việc giá tiền tệ bị phá cũng xảy ra thường xuyên hơn ở trong giai đoạn này và kiến cho nền kinh tế thế giới xuất hiện nhiều bất ổn lớn.
Vào tháng 7/1944, trước khi chấm dứt chiến tranh thế giới thứ 2, đại biểu đến từ 44 quốc gia Đồng Minh đã đến một khu nghỉ mát trên núi Bretton Woods, New Hampshire, Mỹ tập trung lại và tham gia vào Hội nghị Tài chính và Tiền tệ để thảo luận về trật tự tiền tệ quốc tế mới của Liên hợp quốc.
Hội nghị này có mục tiêu đầu tiên đó chính là khôi phục lại nền kinh tế thế giới, tiến hành cải tổ lại hệ thống tiền tệ quốc tế để tránh mắc phải các sai lầm đã xảy ra trước đây. Đồng thời, cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế trong khi các mục tiêu chính sách tự trị của những quốc gia riêng lẻ vẫn sẽ được bảo vệ. Không những thế, cũng hình thành nên một trật tự tiền tệ quốc tế mới nhằm mục đích giúp cho các mối quan hệ tiền tệ trên phạm vi quốc tế tránh sự tan rã vào những năm 1930.
Trong đó, mục tiêu mà hệ thống tiền tệ mới cần phải đáp ứng khi ra đời đó chính là:
- Những tổ chức quốc tệ cũng như hợp tác quốc tế ở trong lĩnh vực tài chính tiền tệ cần phải thành lập nên một tổ chức quốc tế với các quyền hạn và chức năng nhất định.
- Trong ngắn hạn, chế độ tỷ giá hối đoái cần phải được xác định một cách cố định, tuy nhiên vẫn có thể được điều chỉnh khi mà tình trạng mất cân đối cơ bản xuất hiện.
- Dự trữ quốc tế cần được tăng cường thông qua việc gia tăng vàng và đồng thời các nguồn dự trữ bằng tiền nhằm đảm bảo mang đến sự hoạt động hiệu quả cho tỷ giá cố định khi điều chỉnh.
Tại hội nghị khi đó đã có hai luồng quan điểm trái chiều xuất hiện phần lớn đến từ việc bị chi phối bởi lợi ích của Mỹ và Anh – hai cường quốc kinh tế lớn nhất tại lúc bấy giờ.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, các quốc gia ở châu Âu đã gánh chịu hậu quả bị tàn phá nặng nề và nền kinh tế bị khủng hoảng vô cùng nghiêm trọng. Ở thời điểm đó, Anh quốc hiện là quốc gia đang mang nợ lớn cho nên với mong muốn tách khỏi sự lệ thuộc vào Mỹ họ đã muốn tỷ giá hối đoái được thả nổi tự do nhằm có được sự linh hoạt về tỷ giá hối đoái và giúp cán cân thanh toán được cải thiện lại khi chúng đang nằm nghiêng hẳn một bên.
Trong khi đó, Mỹ lại có một tiềm lực kinh tế mạnh mẽ hơn bao giờ hết tính trong vòng hai thật kỳ đầu sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ 2. Lúc này, Mỹ được xem là một trung tâm kinh tế tài chính duy nhất của thế giới và đặc biệt nắm giữ đến khoảng 70% trữ lượng vàng toàn cầu. Là một chủ nợ lớn của thế giới, Mỹ mong muốn thị trường thế giới mở cửa trở lại để xuất khẩu và thông qua sự ổn định tỷ giá cố định để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại tự do.
Cuối cùng, một thỏa ước quốc tế quan trọng đã đạt được khi hội nghị kết thúc có tên gọi là Chế độ tiền tệ Bretton Woods được xây dựng chủ yếu dựa trên cơ sở của Hoa Kỳ.
Các quy tắc và đặc điểm của hệ thống Bretton Woods
Hệ thống chế độ tỷ giá cố định điều chỉnh hạn chế thay thế Bản vị vàng – Gold Standard
Đồng đô la Mỹ được biết đến là tiền tệ quốc tế hay còn gọi là đồng tiền chuẩn, được sử dụng để làm phương tiện thanh toán và dự trữ quốc tế. Đặc biệt, trong thanh toán quốc tế cũng như ngoại thương, đồng USD sẽ không bị hạn chế khi sử dụng.
Trong khuôn khổ của hệ thống tiền tệ Bretton Woods, chế độ tỷ giá được đưa ra dựa vào cơ sở áp dụng các nguyên tắc của “Chế độ bản vị vàng hối đoái, tỷ giá này sẽ được gắn với toàn bộ những loại tiền tệ với đồng USD mỹ cũng như đồng USD được gắn liền với vàng”.
Hay nói theo một cách khác, tỷ giá trao đổi cố định giữa đồng tiền của các quốc giá được tính qua bản vị vàng thế giới với vàng sẽ được cố định và chuẩn hóa. Vàng sẽ được mua lại, bán đi hoặc có thể vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng trung ương của các quốc gia để có thể mua vào và bán ra kịp thời trong thị trường nội địa nhằm giữ cho giá của đồng tiền không bị thay đổi.
Theo hệ thống Bretton Woods, mỗi quốc giá sẽ phải xây dựng một chính sách về việc ngang giá tương ứng với đồng USD Mỹ và một giá vàng, trong khi đó đồng USD Mỹ cũng cần phải được định giá theo vàng với giá trị là 35$ = 1 ounce.
Thực chất, hệ thống Bretton Woods chính là thỏa thuận nói về việc giữ giá trị của đồng tiền các quốc gia theo giá vàng và cũng đồng thời chống lạm phát về giá cả. Hệ thống này được bắt đầu thực hiện năm 1946. Ý tưởng cố định giá đồng đô la Mỹ vào giá vàng nhằm mục đích để cho hệ thống Bretton Woods có được sự tin cậy 100%.
Vào năm 1945, chính phủ Mỹ đã nắm giữ gần như khoảng 70% dự trữ vàng của thế giới cho nên nó nhận được sự tin tưởng từ các Ngân hàng trung ương ở nước ngoài và có thể sẵn sàng nắm giữ đồng đô la Mỹ làm dự trữ của mình. Lý do là vì Mỹ đã cam kết duy trì việc chuyển đổi đồng USD ra vàng không có sự hạn chế nào với mức giá cố định là 35$ = 1 ounce.
Các quốc gia thành viên cũng đã duy trì việc dự trữ quốc tế chính thức của mình bằng vô cùng rộng rãi bằng hình thức vàng hoặc những tài sản được định giá bằng đô la. Đồng thời có quyền được bán đô la lấy vàng theo giá chính thức cho Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ.
Theo như quy định được đặt ra khi tìm hiểu về đặc điểm của hệ thống Bretton Woods thì hệ thống này cho phép thay đổi những mức ngang giá đó (gồm có nâng giá hoặc phá giá đồng tiền) trong và chỉ ở trong trường hợp thanh toán quốc tế bị mất cân đối một cách nghiêm trọng.
Hai tổ chức IMF và IBRD (WB) được hình thức
Phần cốt lõi trong đặc điểm của hệ thống Bretton Woods đó chính là hai tổ chức IBRD – International Bank for Reconstruction and Development (Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế) hay WB – World Bank (Ngân Hàng thế giới) và IMF (International Monetary Fund – Quỹ tiền tệ thế giới) được hình thành. Thỏa ước này phần lớn được các quốc gia phê chuẩn và từ năm 1945 thì IMF đã bắt đầu hoạt động.
Mục tiêu chính trong việc hình thành IMF đó chính là giám sát cũng như thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ, và đồng thời thúc đẩy việc tăng cường thương mại thế giới. Các nhiệm vụ cơ bản trong việc thúc đẩy thương mại của IMF đó chính là đảm bảo việc hoạt động trơn tru và hiệu quả của hệ thống chế độ tỷ giá cố định cũng như giảm thiểu tối đa nhất nhu cầu phá giá đồng tiền của các nước thành viên thông qua cách thức cung cấp cho mỗi quốc gia một hạn mức tín dụng thường xuyên nhằm tài trợ những thâm hụt tạm thời đến từ cán cân thanh toán.
Các quốc gia trong hệ thống tiền tệ Bretton Woods đã đưa ra quyết định không trao quyền lực của một ngân hàng trung ương toàn cầu cho IMF. Đồng thời, IMF cũng sẽ không thể nào in tiền cũng như tác động đến những nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ.
IBRD hay còn gọi là WB sẽ chịu trách nhiệm tài trợ cho các dự án phát triển và hỗ trợ các quốc gia Châu Âu phục hồi lại nền kinh tế sau khi kết thúc chiến tranh cũng như huy động nguồn vốn đến từ các quốc gia phát triển cho vay với mức lãi suất thấp ở các quốc gia kém phát triển và nghèo nàn để giúp nền kinh tế của họ phát triển hơn.
Một vài tác động tích cực đến nền kinh tế thế giới của hệ thống Bretton Woods
Như vậy, với các đặc biệt và quy tắc của mình, thì các tác động tích cực mà nền kinh tế nhận được từ hệ thống Bretton Woods là gì?
Cho đến chiến tranh thế giới thứ nhất, phần lớn mọi quốc gia đều theo chế độ bản vị vàng. Tuy nhiên, quy tắc vẫn bị họ phá vỡ để có thể in ấn các số tiền cần thiết để sử dụng chi trả cho chiến tranh. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng siêu lạm phát vì lượng cung tiền lớn hơn gấp nhiều lần so với cầu tiền. Từ chính điều này đã khiến cho giá trị tiền tệ giảm mạnh đến nỗi ở một số khu vực một xe tiền đẩy chỉ có thể đổi lại một ổ bánh mì. Sau khi chiến tranh kết thúc, các quốc gia đều quay trở lại dùng chế độ bản vị vàng để đảm bảo an toàn.
Tuy nhiên cho đến khi cuộc Đại suy thoái bắt đầu thì mọi chuyện không được tốt đẹp như vậy nữa. Sau khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào năm 1929, các nhà đầu tư tiến hành chuyển sang thực hiện giao dịch hàng hóa và ngoại hối. Từ đó, đã làm cho giá trị của vàng bị đẩy lên cao hơn và khắp nơi người dân đều đổ xô đi mua sắm vàng. Mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn nữa khi mà Cục dự trữ Liên Bang Mỹ tiến hành bảo vệ dự trữ vàng quốc gia bằng cách tiến hành gia tăng mức lãi suất. Chính điều này đã dẫn đến việc các quốc gia bắt đầu đưa ra các mong muốn từ bỏ sử dụng chế độ bản vị vàng.
Hệ thống tiền tệ Bretton Woods ra đời đã mang lại sự linh hoạt hơn cho các quốc gia so với chế độ bản vị vàng cứng nhắc trước đó trong khi biến động tạo ra ít hơn một hệ thống tiền tệ không đi theo tiêu chuẩn nào cả. Đặc biệt, khi cần thiết, các quốc gia thành viên vẫn được phép thay đổi giá trị tiền tệ của mình nhằm điều chỉnh về tình trạng tài khoản vãng lai bị mất cân bằng.
Với hệ thống tiền tệ mới này, sự ổn định của tỷ giá hối đoái đã được tác động tích cực. Không những thế, điều này cũng giúp cho nền kinh tế thế giới nói chung được cải thiện và cũng như thương mại quốc tế nói riêng.
Những quốc gia đi theo hệ thống Bretton Woods sẽ thiết lập nguồn dự trữ ở dạng tiền tệ của một quốc gia duy nhất và đồng thời chỉ có thể là quốc gia đó mới theo thật sự theo hệ thống bản vị vàng. Với hệ thống hối đoái này, các quốc gia thành viên sẽ được phép tiết kiệm vàng bởi vì họ có thể sử dụng ngoại hối hoặc vàng làm phương tiện trong việc thanh toán quốc tế.
Không những thế, các quốc gia thành viên khi sử dụng hệ thống này cũng sẽ được hưởng thu nhập thông qua việc nắm giữ ngoại hối, trong khi đó việc cất giữ vàng sẽ không đem lại cho họ bất kì thu nhập nào. Bên cạnh đó, họ còn được giảm các khoản chi phí giao dịch trong khi vận chuyển vàng giữa các quốc gia với nhau. Khi tỷ giá hối đoái ổn định, dự trữ tiền tệ quốc tế cũng được cung ứng dồi dào đã tạo điều kiện thuận lợi cho mậu dịch quốc tế cũng như là đầu tư trong suốt những năm 50, 60.
Hệ thống Bretton Woods có quá trình hoạt động như thế nào?
Hệ thống Bretton Woods được chia làm 2 giai đoạn trong suốt thời gian hoạt động của mình đó chính là giai đoạn “đói USD” từ năm 1940 – 1958 và giai đoạn “Bội thực USD” từ năm 1959 – 1971.
Giai đoạn 1940 – 1958
Trong chiến tranh thế giới thứ 2, Mỹ đã thu về một số lượng vàng khổng lồ từ các nước tham chiến dựa vào việc bán các vũ khí. Cho nên khi kết thúc chiến tranh, nguồn dự trữ vàng của Mỹ đã lên đến 26 tỷ USD (chiếm gần 70% lượng dự trữ vàng toàn cầu). Vì vậy, đồng USD đã được xem trọng ngang với vàng.
Trong khi đó, sau chiến tranh các quốc gia Châu Âu lại bị tàn phá nặng nề và cần tín dụng lớn phục vụ vào việc nhập khẩu các vật dụng cần thiết nhằm tái thiết lại nền kinh tế thông qua kế hoạch Marshall với khoảng 17 tỷ Mỹ kim đã được vận chuyển đến 16 nước ở Tây Âu. Các động thái này đã làm tình trạng thiếu USD giảm bớt đi và khôi phục cân bằng cạnh tranh bằng cách giảm thặng dư thương mại của Mũ. Ở vào cuối của giai đoạn này, một số dấu hiệu của sự khủng hoảng đã bắt đầu xuất hiện ở nền kinh tế của Mỹ.
Giai đoạn 1959 – 1971
Nền kinh tế các quốc gia Tây Âu sau cuộc tái thiết thành công đã phục hồi vô cùng mạnh mẽ và dần dần đi vào sự ổn định cũng như có sự tăng trưởng mạnh. Ở các Ngân hàng Trung ương các quốc gia, nguồn dự trữ USD tăng lên và nhu cầu chuyển đổi từ USD sang vàng đã được sinh ra.
Cũng với khoảng thời gian này, ở Ngân hàng Trung ương đã có tình trạng các nhà đầu tư mua vàng vào và tiến hành bán vàng ở thị trường tự do xảy ra bởi vì tại Ngân hàng Trung ương giá vàng vẫn được giữ ở mức 35$/ounce. Trong khi đó, trên thị trường tự do giá vàng lại có nhiều biến động theo quy luật cung và cầu.
Không những thế, nền kinh tế của Nhật Bản và Tây Âu cũng phát triển khá mạnh mẽ và làm cho giá trị đồng tiền của quốc gia tăng lên. Đồng USD đã dần dần bị mất lòng tin và nguồn vốn từ đồng Mỹ Kim cũng đã dần dần được chuyển sang những đồng tiền khác có giá trị mạnh hơn.
Cho đến năm 1971, Mỹ đưa ra tuyên bố sẽ ngừng đổi đồng đô la Mỹ sang vàng và lần đầu tiên phá giá đồng USD qua Hiệp định Smithson. Giá vàng khi đó đã chính thức từ 35 USD/ounce tăng lên 38 USD/ounce.
Tuy nhiên, Hiệp định Smithson chỉ có thể tồn tại trong khoảng thời gian hơn 1 năm, vào đầu năm 1973 đồng USD đã bị khủng hoảng. Sau khi Mỹ tiến hành phá giá lần 2 đối với đồng USD thì các nước công nghiệp chủ chốt đã bắt đầu có dấu hiệu bãi bỏ mức ngang giá chính thức với đồng này và đồng thời thả nổi độc lập đồng tiền của nước mình. Thông qua điều này đã cho thấy việc cải tổ hệ thống Bretton Woods đã bị thất bại hoàn toàn và khiến cho hệ thống tiền tệ này sụp đổ. Đây cũng chính là nguyên do khởi nguồn khi đi tìm nguyên nhân vì sao hệ thống Bretton Woods sụp đổ.
Vì sao hệ thống Bretton Woods sụp đổ?
Sự bất ổn bên trong hệ thống Bretton Woods và sự sụp đổ của chúng mặc dù đã nỗ lực để khôi phục
Chính sách tiền tệ mở rộng của Mỹ đã làm nguồn cung USD tăng lên và đi cùng với đó chính là khả năng cạnh tranh gia tăng từ những nước thành viên khác và đã sớm khiến cho cán cân thương mại có sự đảo ngược.
Mỹ nuôi tham vọng mong muốn toàn bộ các quốc gia trên thế giới đều sẽ dự trữ USD chứ không phải là vàng. Trong khi đó, dự trữ vàng của Mỹ có sự suy giảm đi kèm với các thâm hụt vì ý muốn duy trì sự cân bằng cho toàn cầu, đe dọa đến cho sự ổn định của hệ thống tiền tệ Bretton Woods.
Trong khoảng thời gian suốt những năm 60 và đầu những năm 70, sự phát triển kinh tế của các nước Tây Âu đã tăng lên nhanh chóng hơn nền kinh tế Mỹ, cán cân thanh toán của Mỹ đã bội chi và khiến cho đồng USD liên tục mất giá.
Phải công nhận rằng hệ thống Bretton Woods cũng đã vô cùng thành công trong việc thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu và giảm bớt các tình trạng khủng hoảng tài chính, đặc biệt nhất là trong giai đoạn đến giữa năm 60 sau khi hệ thống đã trải qua một khoảng thời gian dài sau khi ra đời. Tuy nhiên, đến cuối cùng thị hệ thống này cũng đã không có đủ sức và thiếu sự linh hoạt trong việc đối phó với sức mạnh của các nền kinh tế đang gia tăng khác như Nhật Bản và Đức và sự miễn cưỡng của Mỹ đối với việc điều chỉnh chính sách kinh tế trong nước để bản vị vàng được duy trì.
Hệ thống tiền tệ Bretton Woods cũng đã làm giới hạn các hoạt động chi tiêu của Mỹ và thế giới bởi vì số lượng vàng sở hữu có hạn, trong khi đó nhu cầu dùng đến tiền lại thật sự lớn hơn rất nhiều lần. Việc Mỹ in ấn tiền để tài trợ cho Chiến tranh Việt Nam hoặc việc trợ cho những quốc gia khác đã làm cho lạm phát tăng lên và đồng USD mất giá.
Để duy trì hệ thống này, những biện pháp khắc phục thường sẽ chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn hạn nhưng về lâu dài thì lại không. Khi đó, Triffin chính là mối đe dọa lớn nhất đối với toàn hệ thống. Sau năm 1965, vấn đề này lại càng trở nên trầm trọng hơn do Hoa Kỳ mở rộng tiền tệ và chính sách tài khóa đã khiến cho lạm phát gia tăng.
Vào tháng 8/1971, Hoa Kỳ (cụ thể là Tổng thống Nixon) đã rút ra khỏi hệ thống Bretton Woods để xóa bỏ sự bất hợp lý bên trên và tiến hành thực hiện để thả nổi đồng USD cũng như tan rã hệ thống tỷ giá hối đoái cố định.
Ngay lập tức, đồng USD hạ giá và hệ thống Bretton Woods lại được các nhà lãnh đạo trên thế giới tìm mọi cách để khôi phục thông qua Hiệp định Smithson năm 1971. Tuy nhiên, mọi cố gắng đều đã bị thất bại. Vào năm 1973, Mỹ và những quốc gia khác đã đồng ý về việc cho phép tỷ giá hối đoái thả nổi.
Hệ thống tiền tệ Bretton Woods vào năm 1976 đã hoàn toàn chấm dứt. Thay vào đó sẽ thông qua Hệ thống tiền tệ Jamaica, và hệ thống này cho đến ngày này vẫn còn hiệu lực. Theo như hệ thống này, tỷ giá hối đoái sẽ được thả nổi và sẽ không còn gắn với vàng nữa. Những loại tiền tệ khác cũng bắt được có sự phát triển mạnh lên và đồng USD đã không còn là tiền tệ chính của thế giới.
Tuy nhiên, mặc dù hệ thống Bretton Woods sụp đổ thế nhưng WB và IMF vẫn còn tồn tại. Cho đến ngày này nó vẫn còn hoạt đồng dù nhận về khá nhiều chỉ trích đến từ các nước đang phát triển và phát triển.
Nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods
Như vậy, vì sao hệ thống Bretton Woods sụp đổ? Việc hệ thống này đã được giáo sư Robert Triffin đưa ra lời giải thích đó chính là vì Mỹ đã bị đưa vào tình trạng vô cùng khó xử về thanh khoản cơ bản khi mà đồng tiền USD được dùng làm tiền tệ quốc tế.
Vị giáo sư này cho rằng khi nền kinh tế ngày một phát triển thì nhu cầu về đồng USD cũng sẽ nhiều hơn. Như vậy, cán cân thanh toán của Mỹ sẽ phải chịu thâm hụt. Dự trữ vàng của Mỹ sẽ ít hơn dự trữ USD mà các quốc gia khác đang nắm giữ. Tức là Mỹ sẽ không thể đảm bảo được việc chuyển đồng USD quốc tế thành vàng và uy tín sẽ dần mất đi. Đó chính là lý do vì sao hệ thống Bretton Woods sụp đổ.
Một yếu tố khác nữa khá quan trọng trong sự sụp đổ hệ thống này đó chính là do lạm phát gia tăng từ năm 1965 tại Mỹ. Vào năm đó, William McChesney Martin – Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang đã phải cố gắng duy trì sao cho lạm phát nằm ở mức thấp nhất. Đến năm 1965, chính sách lạm phát kéo dài đã được Fed Martin chuyển sang đến đầu những năm 1980 và sau đó được gọi là Đại lạm phát vào những năm 1970.
Một trong các nguyên nhân trực tiếp khiến cho hệ thống Bretton Woods sụp đổ chính là việc Mỹ đã phá giá đồng đô la. Tuy nhiên, cơ bản cho thấy lý do của sự đổ vỡ vẫn nằm ở vấn đề thanh khoản và sự vắng mặt của một cơ nào điều chỉnh sao cho phù hợp nhất.
Hệ thống Bretton Woods tồn tại được là phụ thuộc vào sự tin tưởng sẽ duy trì được nội dung vàng của đồng đô la. Tuy nhiên, dự trữ vàng sẽ có nguy cơ biến mất để đáp ứng được các nhu cầu của Ngân hàng Trung ương các quốc gia chính là bù đắp vào sự thiếu hụt cán cân thương mại. Lý do đến từ việc duy trì mức ngang giá với đồng USD (Cam kết đổi từ USD chuyển sang vàng đã được Mỹ chấm dứt).
Không những thế, nếu như các biện pháp cải thiện cán cân thanh toán được Mỹ áp dụng thì tình trạng thiếu hụt thanh khoản hệ thống sẽ xảy ra. Từ dó tạo áp lực vào sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Vì vậy, chế độ hối đoái vàng này sụp đổ hoàn toàn cũng là một hệ quả tất yếu có thể lường trước.
Vừa rồi là những chia sẻ về Bretton Woods là gì mà Forex Dictionary đã tổng hợp và tìm hiểu được. Có thể thấy, dù cho có thế nào thì hệ thống tiền tệ Bretton Woods vẫn được xem là một di sản lớn đã được để lại cho nhân loại dù đã kết thúc với hơn 30 năm hoạt động. Như vậy, hy vọng rằng những thông tin ở bài viết này sẽ mang đến cho bạn các kiến thức kinh tế thế giới, tỷ giá hối đoái hữu ích nhất.
Xem thêm: Vàng tài khoản là gì? Điểm khác nhau giữa vàng tài khoản với vàng vật chất là gì
Tôi là Trang Thái Hùng – tác giả của những bài viết trên ForexDictionary, với kinh nghiệm hơn 5 năm trong lĩnh vực đầu tư tài chính tôi muốn chia sẻ đến bạn đọc các kiến thức mà tôi đã tích luỹ được, vững kiến thức chọn được nơi đầu tư an toàn lợi nhuận khủng không còn là chuyện quá khó.