Chế độ bản vị vàng là gì? Bản vị vàng là một chế độ tiền tệ được hình thành vào những năm 30 của thế kỷ 20. Đây là một chế độ từng được rất nhiều nước trên thế giới sử dụng. Tuy nhiên, hiện nay, hầu hết các quốc gia đã bãi bỏ và không còn sử dụng chế độ này nữa. Vậy tại sao chế độ bản vị vàng sụp đổ? Các bạn hãy cùng Sanforexco tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây nhé!
Tổng quan về chế độ bản vị vàng
Khái niệm và đặc điểm của chế độ bản vị vàng
Chế độ bản vị vàng là gì? Hẳn nhiều người vẫn chưa biết bản vị vàng là gì? Bản vị vàng (hay còn được gọi là Gold Standard) là một hệ thống tiền tệ mà tại đó vàng được xem là trung tâm. Một đất nước sử dụng bản vị vàng đồng nghĩa với việc giá trị tiền tệ của đất nước đó được kết nối trực tiếp với vàng, hay nói cách khác vàng chính là cơ sở cung cấp tiền của đất nước đó. Vì thế, khi xuất hiện những khoản thâm hụt trong cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế, vàng sẽ được sử dụng để chi trả cho những khoản ấy.
Nói chung, chế độ bản vị vàng chính là tiêu chuẩn để xác nhận chức năng tiền tệ của vàng trong lưu thông. Và cũng chính trong chế độ này, vàng sẽ được lấy làm thước đo giá trị cho những loại tài sản khác.
Trong quá trình tồn tại của mình, chế độ bản vị vàng đã phát triển và được chia thành 3 hình thức như sau:
- Bản vị tiền vàng
- Bản vị vàng thỏi
- Bản vị hối đoái vàng
Trong hệ thống tiền tệ này, các quốc gia đồng ý đổi tiền giấy lấy một lượng vàng cố định và cho dù loại tiền đó có hình thức gì (dù được đúc bằng vàng hay in trên giấy), người nắm giữ tiền tệ luôn có các quyền quan trọng. Điều quan trọng cần tuân thủ đó là yêu cầu tổ chức phát hành chuyển đổi tiền tệ thành vàng theo tỷ giá hối đoái đã được thỏa thuận trước đó.
Cũng theo nền tảng bản vị vàng này, các công cụ tính toán kinh tế tiêu chuẩn được thiết kế để tính toán dựa trên hàm lượng vàng và tỷ giá hối đoái được cố định rất “chặt chẽ” dựa theo lượng vàng của đồng tiền đó.
Xem thêm: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái
Nếu một quốc gia thực hiện chế độ bản vị vàng, tiền vàng xu sẽ được lưu hành và tiền giấy sẽ được đổi trực tiếp để lấy vàng dựa trên giá thị trường (chính phủ không thể ép buộc điều này). Tiền giấy vào thời điểm này có vai trò giống như một tấm séc, cho phép người nắm giữ nó sở hữu một lượng vàng nhất định do tổ chức phát hành tiền đó quản lý.
Lúc này, các quốc gia áp dụng chế độ bản vị vàng cần phải tuân thủ các quy định cụ thể như sau:
- Niêm yết tiền tệ bằng vàng và giao dịch vàng ở mức giá quy định mà không bị hạn chế.
- Các nước được thực hiện các hoạt động lưu thông, xuất nhập khẩu vàng một cách tự do.
- Sử dụng vàng để đảm bảo tuyệt đối cho tiền của Ngân hàng Trung ương.
Những người theo phe ủng hộ chế độ bản vị vàng cho rằng chế độ này sẽ giúp hạn chế lạm phát do người dân không sử dụng nhiều tiền mặt. Vì thế, họ phản đối việc mở rộng các hoạt động tín dụng vì sẽ gây ra nợ xấu do chế độ tiền luật định đem lại.
Lịch sử phát triển của bản vị vàng
Chắc hẳn ai cũng biết được rằng đặc tính cơ bản của vàng đó là sự ổn định, bền vững về tính sẵn có, giá trị nội tại không có sự biến động. Đặc biệt, vàng là dạng vật chất duy nhất đáp ứng được các yêu cầu cơ bản một cách đầy đủ và quan trọng hàng đầu trong việc trở thành một thước đo giá trị thương mại. Tuy nhiên, phần lớn trong lịch sử nhân loại, xét theo thực tế thì phương tiện giao dịch chủ yếu đó chính là vàng. Không những thế, nó cũng chính là kim loại nắm giữ chức năng tiền tệ quan trọng.
Tuy nhiên, hệ thống song bản vị hay còn gọi là Bimetallic Standard, trong đó bao gồm cả vàng và bạc lại được sử dụng cùng nhau làm tiền tệ trong lưu thông. Chính điều này đã gây trở ngại đến đời sống kinh tế cũng như sự lưu thông tiền tệ bởi vì nạn đầu cơ tiền tệ hoặc tiền vàng. Cũng chính từ đó mà sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng bị hạn chế. Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, khi mà lượng vàng được khai thác không thể nào đáp ứng được yêu cầu của việc lưu thông tiền tệ bằng vàng thì việc thực hiện bản vị vàng đã không còn đủ sức thuyết phục nữa.
Mãi cho đến thế kỷ XXVII và thời kỳ đầu bước sang thế kỷ XIX, các quốc gia trên thế giới mới có đầy đủ điều kiện để chuyển đổi từ hai bản vị sang bảng vị vàng dưới sự phát triển của ngành nghề khai thác vàng. Cũng chính vào thời điểm này, Anh Quốc với tư cách là một quốc gia có nền kinh tế và thương mại phát triển nhất trên thế giới đã trở thành quốc gia tiên phong trong việc áp dụng chế độ bản vị vàng sau một khoảng thời gian chuyển đổi tương đối dài từ năm 1717 đến 1821. Không những thế, mặc dù vào năm 1816 phát lệnh của Anh Quốc đã công bố việc áp dụng bản vị vàng thế nhưng mãi đến năm 1821 nó mới được chính thức thực hiện.
Bên cạnh đó, Mỹ cũng đã tiến hành thực hiện hệ thống bản vị vàng từ năm 1834 và vào năm 1990 đã đưa ra luật bản vị vàng thực tế. Nó xác định vàng chính là kim loại duy nhất có thể quy đổi để đổi lấy tiền giấy và đồng thời giá trị của vàng cũng sẽ được hệ thống tiêu chuẩn vàng xác định. Điều này đồng nghĩa với việc mỗi một ounce vàng sẽ được quy đổi thành 20,67 USD.
Vào ngày 31/5/1930, tại Việt Nam, Toàn quyền Đông Dương đã đưa ra nghị định quy định mệnh giá của mỗi đồng bạc Đông Dương sẽ có sự tương đương với 655 mg vàng. Đồng bạc Đông Dương ở thời điểm này đã có sự chuyển đổi sang bản vị vàng.
Chế độ bản vị vàng có hiệu quả như thế nào đối với hệ thống tiền tệ?
Trong khi phần lớn các nhà kinh tế vĩ mô cũng như các chính phủ ngày nay không còn ủng hộ chế độ bản vị vàng nữa thì nó lại được ủng hộ cực kỳ lớn vào thời kỳ hoàng kim của mình với rất nhiều quan điểm được đưa ra mô tả về lợi ích của chế độ bản vị vàng đối với hệ thống tiền tệ.
Nếu như chế độ tiền pháp định ở nhiều đất nước khi được áp dụng sẽ có nguy cơ cao làm gia tăng lạm phát thì chế độ bản vị vàng ngược lại có tác dụng kiềm hãm sự lạm phát. Như vậy, lý do là gì?
Lý do đầu tiên mà chúng ta có thể kể đến có lẽ vì vàng là một loại tài sản hữu hạn. Sau khoảng thời gian hàng nghìn năm khai thác vàng thì lượng vàng mà con người sở hữu chỉ còn lại đâu đó khoảng 125.000 tấn. Điều này đồng nghĩa với việc vàng không thể nào được “sản xuất” ra với một số lượng lớn ngay cả khi con người muốn, bởi vì lạm phát sẽ xảy ra.
Lý do tiếp theo đó, bởi vì vàng được biết đến là một loại vật chất có thể chuyển đổi thành mọi loại tiền tệ và được chấp nhận ở mọi các quốc gia trên thế giới. Nhiều quan điểm đã được đưa ra cho rằng vàng là một vật đảm bảo có khả năng chống lại “rủi ro” trong cách chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Và đồng thời, đây cũng chính là một phương tiện có thể chống lại được các rủi ro về sự biến động tiền tệ.
Đứng ở khía cạnh lý thuyết, việc cam kết duy trì về khả năng chuyển đổi tiền thành vàng trong việc tạo ra tín dụng đã bị hạn chế nghiêm trọng. Khác với một hệ thống tiền tệ fiat, một loại tiền tệ được hỗ trợ dưới hình thức vàng sẽ không cho phép việc tiền giấy được các chính phủ in một cách tùy tiên. Không những thế, đối với thương mại quốc tế thì vàng nó mang lại một sự ổn định vô cùng lớn bởi vì một cấu trúc cố định dành cho tỷ giá hối đoái sẽ được chế độ bảng vị vàng này cung cấp.
Theo như hệ thống bản vị vàng cổ điển quốc tế, một đất nước khi có sự biến động giá cả sẽ được điều chỉnh toàn bộ hoặc điều chỉnh một phần dựa vào cơ chế tự cân bằng thanh toán – cơ chế của dòng chảy giá cả – tiền xu vàng (bản kim). Cấu trúc này sẽ có quy trình cụ thể như sau:
- Đầu tiên, khi một loại hàng giá giảm giá bởi vì nguồn cung tăng, hiệu quả sử dụng vốn có sự cải thiện, giá cả đầu vào của hàng hóa giảm hoặc đến từ lý do cạnh tranh, người mua sẽ có sự ưa chuộng hàng hóa đó hơn với các hàng hóa khác. Khi tỷ giá hối đoái tiền tệ, cụ thể là vàng có sự ổn định thì người tiêu dùng ở trên nhiều quốc gia khác sẽ có xu hướng mua hàng hóa với giá rẻ nhất. Chính từ đó, ở những quốc gia có sự hiệu quả kinh tế cao nhất sẽ được vàng chảy vào.
- Ở tại thời điểm này, những quốc gia mới khi nhận được dòng vốn là vàng sẽ phải gia tăng cung tiền và đồng thời phải chịu áp lực của sự lạm phát để nhằm bù đắp vào sự sụt giảm giá diễn ra ở trước đó.
- Không những thế, trong nền kinh tế kém hiệu quả hơn thì lượng tiền lưu thông sẽ giảm xuống. Vì vậy, ở các quốc gia giá cả cũng sẽ suy giảm cho đến khi khôi phục được trạng thái cân bằng.
Cuối cùng, để nhằm ngăn chặn được dòng chảy vàng ra ngoài thì các Ngân hàng Trung ương đã quyết định hỗ trợ thông qua việc gia tăng lãi suất để có thể đưa giá quay trở lại trạng thái cân bằng quốc tế một cách nhanh chóng nhất. Xét về mặt lý thuyết, miễn là việc bản vị vàng sụp đổ được ngăn chặn thì việc giảm phát nhanh chóng hay lạm phát cao cũng sẽ đều có thể được hạn chế.
Những hạn chế cần biết của chế độ bản vị vàng
Lượng vàng toàn cầu không đáp ứng được nhu cầu sử dụng
Đứng ở góc độ lý thuyết, chỉ có chế độ bản vị vàng chính thức, tức là một hệ thống sử dụng vàng 100% trong việc phục vụ cho mục đích lưu thông ở trong nền kinh tế và sẽ không sử dụng tiền kim loại hay tiền giấy thì mới có thể hoàn toàn ngăn chặn được lạm phát.
Tuy nhiên, điều này khả năng cao là không thể nào xảy ra vì số lượng vàng có hạn và trên trái đất trữ lượng vàng gần như đã cạn kiệt, đồng thời các hoạt động kinh tế trên toàn cầu cũng không thể nào được đảm bảo ngoại trừ việc giá trị vàng gia tăng lên đến hàng chục hay hàng trăm lần.
Giảm phát có thể xảy ra bởi vì chế độ bản vị vàng
Bởi vì giá trị tiền tệ sẽ có sự liên quan đến hàm lượng vàng cho nên thị trường vốn tiền tệ sẽ bị điều tiết bởi những yếu tố tự do còn lại đó là chính sách tài khóa, tiền tệ và tự do lưu chuyển vốn. Phần lớn lý do các nhà kinh tế không có đưa ra sự ủng hộ dành cho chế độ bản vị vàng đó là sự lo ngại rằng hai yếu tố trên sẽ không thể đối phó lại được với sự giảm phát hay suy thoái nghiêm trọng có khả năng xảy ra bất kỳ lúc nào.
Gây trở ngại trong việc phục hồi nền kinh tế ở thời kỳ khủng hoảng
Một trong số các nhà kinh tế có sự phản đối hệ thống bản vị vàng mạnh mẽ là John Maynard Keynes đã nhấn mạnh rằng “tính cứng nhắc của vàng sẽ khiến cho nền kinh tế không có được sự linh hoạt”. Ngoài ra, chế độ bản vị vàng cũng không thể nào hình thành lên sự linh hoạt dành cho nguồn cung cấp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Trong giai đoạn nền kinh tế xảy ra khủng hoảng, chế độ bản vị vàng lại trở thành một “cục đá” vây hãm Ngân hàng Trung Ương và Chính phủ để đi tìm các chính sách tiền tệ ngăn chặn sự khủng hoảng đó.
Không những thế, các quốc gia nghèo có sự hạn chế về vàng cũng sẽ có nguồn cung cấp vàng hạn chế, từ đó cũng sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế của những quốc gia này. Đặc biệt hơn hết, vàng ở hiện tại không còn được phân bổ dựa theo sức mạnh kinh tế, điển hình nhất là Nhật Bản – một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất nhì trên thế giới với lượng dự trữ vàng ít hơn rất nhiều khi so với mức cần thiết trong việc hỗ trợ nền kinh tế.
Bên cạnh đó, ở những quốc gia có sự thâm hụt cán cân thương mại cũng phải đối mặt với thời kỳ kinh tế đình trệ. Và ở những quốc gia có sự cân bằng thặng dư trong nền kinh tế sẽ phải trải qua giai đoạn lạm phát và sức mạnh của hệ thống bản vị vàng sẽ không còn nữa để nhằm tạo ra được nhiều vàng hơn phục vụ cho việc tiết kiệm tiền cũng như giúp nền kinh tế phục hồi.
Lý do chế độ bản vị vàng bị sụp đổ?
Giai đoạn đại suy thoái của vàng
Chế độ bản vị vàng đã được Hoa Kỳ áp dụng từ lâu, cụ thể là bắt đầu vào năm 1897 – khi mà đồng USD ổn định và Hoa Kỳ đang có một nền kinh tế vô cùng phát triển. Tuy nhiên, cột mốc đầu tiên và cũng được xem là quan trọng nhất chính là khi chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra, đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho chế độ bản vị vàng bị sụp đổ. Hoa Kỳ vào thời điểm đó cùng với các quốc gia Châu Âu đã phải tạm ngưng bản vị vàng, tập trung vào việc in đủ tiền nhằm chi trả khi tham gia quân sự.
Sau khi kết thúc chiến tranh, các quốc gia này đã nhận ra rằng họ không nhất thiết phải neo đồng tiền của đất nước mình đi theo vàng. Thực tế điều này có khả năng gây ra một tổn hại vô cùng lớn cho nền kinh tế toàn cầu.
Vào năm 1919, các quốc gia bao gồm cả Hoa Kỳ quay trở lại nhanh chóng cùng chế độ bản vị vàng đã được sửa đổi sau chiến tranh. Tuy nhiên, bản vị vàng hối đoái này khi đó đã khiến cho giảm phát xảy ra nghiêm trọng và tỷ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng cao hơn nữa trên diện rộng trong nền kinh tế toàn cầu.
Vào năm 1929, khi xảy ra cuộc đại khủng hoảng kinh tế thì các quốc gia đã bắt đầu tiến hành hủy bỏ chế độ bản vị vàng (trong những năm 1930). Đặc biệt nhất là khi cuộc đại suy thoái ở Mỹ diễn ra, cuộc khủng hoảng không thể được kiểm soát một cách dễ dàng bởi vì hệ thống bản vị vàng của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ và Chính phủ.
Vào thời điểm đó, chính phủ Hoa Kỳ đã phải vật lộn trong 4 năm và không thể làm gì trong việc ngăn chặn diễn ra cuộc đại suy thoái. Mãi đến năm 1931, khi Anh Quốc bãi bỏ hệ thống bản vị vàng, ngày 5/6/1931, khi cuộc đại khủng hoảng được đẩy lên cao trào thì tổng thống Franklin D.Roosevelt nhậm chức và chế độ bản vị vàng chính thức bị sụp đổ.
Sau khi chế độ bản vị vàng kết thúc, Cục Dự trữ Liên bang và Chính phủ Hoa Kỳ như là tháo bỏ được một phần gánh nặng nào đó. Lúc này, họ đưa ra được một chính sách tài khóa phù hợp hơn trong việc ngăn chặn giai đoạn đại suy thoái đang diễn ra ở thời điểm đó.
Năm 1944 – Đàm phán Bretton Woods
Bản vị vàng hầu như đã không còn được ai nhớ đến cho đến năm 1944, khi Thế chiến thứ hai kết thúc và các quốc gia như Mỹ, Anh, Nhật, Úc, Canada và các quốc gia Tây Âu gặp nhau để thảo luận về các khoản thanh toán quốc tế sau chiến tranh tại Bretton Woods – New Hampshire – Mỹ.
Tại cuộc họp này, 3 vấn đề quan trọng nhất đã được thảo luận đó là: Thành lập nên Ngân hàng Thế giới – World Bank; thành lập nên Quỹ Tiền Tệ Quốc tế – IMF; khôi phục lại chế độ bản vị vàng ở các quốc gia với quy định rằng giá vàng mỗi ounce bằng 35 USD. Chính vì điều này mà bản vị vàng đã được khôi phục lại với mục đích giữ sự ổn định cho đồng USD.
Chế độ bản vị vàng chính thức sụp đổ
Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng đến từ một nguyên nhân không thể nào bỏ qua đó chính là tỷ giá hối đoái cố định được quy định bởi chính phủ. Vì vậy sẽ không có bất kỳ mối liên hệ hữu có nào giữa cung vàng và cầu vàng với cung hàng hóa và cầu hàng hóa.
Vào năm 1960, Mỹ sở hữu 19,4 tỷ USD dự trữ vàng, trong khi đó Quỹ tiền tệ Quốc tế chỉ đang nắm giữ 1,6 tỷ USD. Khi nền kinh tế Mỹ đang trong thời kỳ bùng nổ, người dân ở đây đã mua hàng nhập khẩu nhiều hơn và tiến hành thanh toán chúng bằng đồng USD. Với một sự thâm hụt cán cân thanh toán lớn đã khiến cho chính phủ các quốc gia khác lo sợ rằng Mỹ sẽ không hỗ trợ vàng cho đồng đô la nữa.
Vào những năm 1970, Mỹ có lượng dự trữ vàng giảm liên tục khi mà các chính sách tiền tệ của tổng thống Nixon đã khiến cho lạm phát xảy ra và đồng thời khiến cho tình trạng kinh tế bị trì trệ. Từ đó, bản vị vàng đã không còn giá trị nữa khi Nixon ra quyết định điều chỉnh lãi suất xuống mức 38 USD/ounce và không cho phép Cục dự trữ Liên bang sử dụng vàng để mua lại đồng USD.
Năm 1971, bởi vì gặp phải nhiều khó khăn trong việc thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế, tổng thống Nixon đã phải rút ra khỏi hệ thống Bretton Woods cũng như bắt đầu cho đồng USD thả nổi – tức là không còn neo theo vàng nữa để nhằm giúp các chính sách linh hoạt có thể được thực hiện một cách dễ dàng hơn.
Có thể thấy việc chế độ bản vị vàng ở Mỹ bị sụp đổ vào năm 1971 hoàn toàn có khả năng đổ lỗi cho việc chế độ bản vị vàng ngăn cản việc in tiền của Mỹ trong việc tài trợ cho chiến tranh. Trong đó phải kể đến cuộc chiến tranh Việt Nam và việc đồng yên Nhật không còn giá nữa đã khiến cho hàng hóa bị tổn thất, rẻ hơn nhiều so với hàng của Mỹ và dẫn đến việc nền kinh tế Mỹ xuất hiện sự bất ổn.
Vào năm 1973, Chính phủ Hoa Kỳ đã định giá vàng ở mức 42,22 USD cho mỗi ounce. Đồng thời vào năm 1976, Hoa Kỳ hoàn toàn tách đồng đô la Mỹ ra khỏi vàng giúp cho giá vàng gia tăng lên nhanh chóng ở mức 124,84 USD. Từ năm 1971 cho đến thời điểm hiện tại, giá vàng tiêu chuẩn có sự gia tăng liên tục, gia tăng nhiều hơn là suy giảm. Đặc biệt có thời điểm vàng đạt 2000 USD/ounce, so với 1971 thì chúng cao hơn gấp 57 lần.
Sau khi bản vị vàng sụp đổ, các quốc gia khác đã bắt đầu tiến hành in thêm tiền tệ của quốc gia của mình, chính điều này đã dẫn đến sự lạm phát, tuy nhiên đây cũng chính là trong những động lực giúp cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng hơn. Hiện nay, hệ thống bản vị vàng đã không còn được một quốc gia nào trên thế giới áp dụng nữa. Thay vào đó thì họ sử dụng tiền phát định – đây chính là một loại tiền mà nhà nước bắt buộc dùng để nhận trợ cấp, nộp thuế cũng như thanh toán những khoản thanh toán của Chính phủ.
Như vậy, qua bài viết này có thể thấy việc bản vị vàng sụp đổ không chỉ xuất phát từ một nguyên nhân duy nhất. Chế độ này đã trải qua một thời kỳ vô cùng huy hoàng và lợi ích của nó đối với nền kinh tế thế giới ở lịch sử là điều mà chúng ta không thể nào phủ nhận được. Tuy nhiên, để nền kinh tế toàn cầu có thể phát triển một cách nhanh chóng thì các chính sách và chế độ tiền tệ khác sẽ có sự thích hợp hơn. Cho nên, hy vọng rằng những kiến thức mà sanforex.vip vừa chia sẻ giúp bạn hiểu rõ hơn về chế độ bản vị vàng là gì và sự hoạt động của hệ thống này ở giai đoạn lúc bấy giờ nhé.
Xem thêm:
Nên đầu tư vàng hay USD? Dự đoán trong tương lai
Tại sao vàng có được vai trò tiền tệ? Nguồn gốc ra đời tiền vàng
Tôi là Trang Thái Hùng – tác giả của những bài viết trên ForexDictionary, với kinh nghiệm hơn 5 năm trong lĩnh vực đầu tư tài chính tôi muốn chia sẻ đến bạn đọc các kiến thức mà tôi đã tích luỹ được, vững kiến thức chọn được nơi đầu tư an toàn lợi nhuận khủng không còn là chuyện quá khó.